Safeguard F Detail

Nội dung với Safeguard F F2.1 times .


Việt Nam đã thực hiện nhiều cam kết chính trị để giải quyết nạn phá rừng và tăng độ che phủ rừng, coi đây là một biện pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu. Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam để giải quyết biến đổi khí hậu[1] cam kết tăng độ che phủ rừng lên 45% vào năm 2030, và Chương trình quốc gia về REDD+ (NRAP)[2]  cũng phản ánh mục tiêu này.

Luật Đất đai (2013) đưa ra các điều kiện và tiêu chí cho việc thay đổi mục đích sử dụng đất; thay đổi mục đích sử dụng đất từ đất rừng sang đất nông nghiệp (bao gồm các phân loại đất rừng khác) phải có quyết định của Thủ tướng Chính phủ đối với những diện tích lớn hơn 20 ha và quyết định của Hội đồng Nhân dân đối với các diện tích nhỏ hơn 20 ha[3].

Luật Lâm nghiệp (2017) quy định quy hoạch lâm nghiệp phải được có tầm nhìn 30 đến 50 năm. Những thay đổi về mục đích sử dụng rừng phải tuân theo Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng và Kế hoạch sử  dụng đất, được phê duyệt bởi cơ quan quản lý, phải có dự án liên quan và nguồn đầu tư đã được phê duyệt, và phải có kế hoạch để trồng bồi hoàn[4].

Luật Lâm nghiệp (2017) cũng nghiêm cấm một cách rõ rang việc chuyển đổi rừng tự nhiên (trừ trường hợp các dự án quan trọng cấp quốc gia, các dự án an ninh quốc phòng, và các dự án đặc biệt khác được chính phủ phê duyệt)[5]. Bên cạnh đó, các dự án đề nghị thay đổi mục đích sử dụng đất/rừng phải trải qua quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường – điều này sẽ làm rõ yêu cầu cấp phê duyệt cho một dự án theo mức độ diện tích và loại rừng bị chuyển đổi[6]. Những quy định kiểm soát chặt chẽ này sẽ đóng góp cho việc giải quyết rủi ro tăng phát thải.

Quốc hội đưa ra các quyết định về chuyển đổi từ đất lâm nghiệp sang đất phi lâm nghiệp với diện tích lớn hơn 50 ha và phê duyệt việc thay đổi về phân loại rừng trên cơ sở đề xuất của Bộ NN&PTNT.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể đưa ra các quyết định về chuyển đổi đất lâm nghiệp sang đất phi lâm nghiệp đến 20 ha đối với rừng đặc dụng và đến 50 ha đối với rừng sản xuất. Ủy ban nhân dân tỉnh cũng điều phối các khảo sát về rừng trong phạm vi tỉnh mình.

Bộ NN&PTNT đưa ra các đề xuất về thay đổi phân loại rừng. Bộ NN &PTNT chỉ đạo việc điều phối hoạt động điều tra – kiểm kê rừng và chỉ đạo việc thành lập Hệ thống giám sát rừng quốc gia. Các Sở NN &PTNT, Chi cục Kiểm lâm báo cáo về hiện trạng rừng - một bộ phận Hệ thống giám sát rừng cấp tỉnh.

Bộ TN&MT có trách nhiệm xây dựng các hướng dẫn đối với đánh giá tác động môi trường xã hội và có trách nhiệm thẩm định, phê duyệt các dự án quốc gia và liên tỉnh. Sở TN-MT có trách nhiệm thẩm định/phê duyệt đánh giá tác động môi trường xã hội trong phạm vi địa phương mình.

 

[1] Quyết định số 2053/2016 / QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
[2] NRP 2017, Quyết định số 419 / QĐ-TTg ngày 5/4/2017. Phụ lục: Các chính sách và biện pháp thực hiện REDD + giai đoạn 2017 - 2020
[3] Luật Đất đai (2013), Điều 57 và 58.
[4] Luật Lâm nghiệp (2017, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019), các Điều 9 và 19-20.
[5] Luật Lâm nghiệp (2017, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019). Điều 14
[6] Nghị định 18/2015 / ND-CP của Chính phủ; Thông tư số 27/2015 / BTNMT của Bộ TN & MT.


Các hành động nhằm giải quyết rủi ro đảo nghịch ở Việt Nam bao gồm:

  • Phân tích các rủi ro đảo nghịch;
  • Lựa chọn và thiết kế các chính sách, giải pháp REDD+ có tính đến các rủi ro đảo nghịch; điều này có thể liên quan đến việc xem xét tính bền vững tài chính và sinh thái lâu dài của các chính sách, giải pháp theo kế hoạch, khung pháp lý và những thay đổi tiềm tàng về điều kiện môi trường và các nguyên nhân mất rừng và suy thoái rừng.
  • Thiết kế Hệ thống giám sát rừng Quốc gia (NFMS) để phát hiện và cung cấp thông tin về rủi ro đảo nghịch;

Các đồng lợi ích và rủi ro môi trường và xã hội của các chính sách và giải pháp của Chương trình  Quốc gia về REDD+(NRAP) đã được đánh giá vào năm 2017, và các biện pháp giảm thiểu lợi ích và giảm rủi ro được đề xuất[1]. Điều này bao gồm một số rủi ro liên quan đến rủi ro nghịch đảo tiềm ẩn, chẳng hạn như:

  • Tiếp tục mất rừng tự nhiên, rừng có giá trị các-bon cao hoặc các khu rừng thực hiện các dịch vụ môi trường quan trọng khác
  • Các nguồn đầu tư, ưu đãi và giá cả thị trường có khả năng tăng cao trong nông nghiệp có thể làm cho sản xuất hiệu quả/hấp dẫn hơn và cũng là tác nhân gây mất rừng trong thời gian dài với quy mô lớn hơn
  • Việc giao đất rừng và cách thức quản lý liên kết, hợp tác có thể dẫn tới các tác động trái chiều đối với việc bảo vệ rừng và có thể hợp pháp hóa việc sử dụng rừng và đất rừng không bền vững.    
  • Các mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ có thể dẫn đến khai thác quá mức lâm sản ngoài gỗ và/hoặc suy thoái/phá rừng để sản xuất (ví dụ: trồng tre trên đất rừng tự nhiên)
  • Nguy cơ cháy rừng trồng
  • Thiếu quan tâm chăm nuôi hoặc loại bỏ các khu rừng trồng ven biển tại các khu vực là rừng phòng hộ hoặc rừng đặc dụng.
  • Ngập lụt trong các rừng tràm dẫn đến các tác động có hại đối với đa dạng sinh học và khí thải nhà kính
  • Cơ chế tín dụng xanh được sử dụng cho các đầu tư không bền vững

Các giải pháp được đề xuất trong quá trình đánh giá này nhằm tăng cường đồng lợi ích của REDD + và giảm thiểu các rủi ro liên quan đến đảo nghịch bao gồm:

  • Bảo tồn và bảo vệ rừng tự nhiên cần được ưu tiên trong quy trình lập kế hoạch sử dụng đất, áp dụng đánh giá môi trường chiến lược trong sử dụng đất và lập kế hoạch ngành, và đảm bảo các công cụ hỗ trợ quyết định cho REDD+ kết hợp giá trị dịch vụ đa dạng sinh học và hệ sinh thái;
  • Cơ chế tài chính xanh nên bao gồm các biện pháp bảo vệ môi trường rõ ràng như tiêu chí và thủ tục sàng lọc các khoản đầu tư được đề xuất, tiến hành kiểm tra và giám sát;
  • Để giảm chuyển đổi rừng sang nông nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống giám sát và truy xuất nguồn gốc, bổ sung bằng cách tăng cường giám sát và thực thi kế hoạch sử dụng đất tại các điểm nóng ưu tiên về mất rừng;
  • Kiểm kê phải được tiến hành trên cơ sở hiện trạng rừng được giao, cũng như các nghiên cứu để nhận thức rõ hơn về quyền sở hữu, nghèo đói, người phụ thuộc vào rừng/sử dụng rừng và tính dễ bị tổn thương. Lập bản đồ và tham vấn có sự tham gia về giao đất lâm nghiệp và các lựa chọn đồng quản lý cần được thực hiện, bao gồm cả việc có thể thúc đẩy giao rừng cho các nhóm cộng đồng;
  • Cải thiện tín dụng và hỗ trợ sinh kế khác, như cải thiện sinh kế nông nghiệp cho phép các hộ gia đình đầu tư nhiều nguồn lực hơn vào bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên;
  • Các mô hình bền vững được xác định cho nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản nên lồng ghép các thực hành giảm thiểu việc sử dụng hóa chất nông nghiệp và nước;
  • Các mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ và các hoạt động liên quan nên thúc đẩy bảo vệ và tăng cường rừng tự nhiên; thủ tục sàng lọc nên được phát triển để loại bỏ các khoản đầu tư không phù hợp;
  • Các hướng dẫn thực hành cho trồng rừng / phục hồi rừng và quản lý rừng trồng ở cấp cơ sở cần được xây dựng, bao gồm lựa chọn địa điểm / loài, thiết kế rừng trồng, kiểm soát dịch hại, phòng cháy, vv;
  • Các hoạt động quản lý bền vững tài nguyên rừng và chứng chỉ cho rừng trồng cần được thúc đẩy thông qua cải thiện tiếp cận các dịch vụ tư vấn;
  • Nghiên cứu chi tiết và xem xét các tác động đến đa dạng sinh học và hệ sinh thái rộng lớn hơn từ các can thiệp ảnh hưởng đến mực nước cũng như tác động từ hoạt động xây dựng cần được thực hiện và đưa vào kế hoạch quản lý các khu vực tràm.

Hướng dẫn quốc gia về xây dựng PRAP cũng đưa ra những yêu cầu về đánh giá rủi ro và lợi ích môi trường và xã hội của các chính sách và giải pháp có trong kế hoạch[2].Các đánh giá rủi ro và lợi ích môi trường và xã hội của các giải pháp và chính sách REDD+, đặc biệt cấp tỉnh, đã được tiến hành thông qua Đánh giá xã hội và môi trường chiến lược (SESA) trong quá trình xây dựng Chương trình Giảm phát thải ở các tỉnh ven biển vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam do FCPF tài trợ[3], và  thông qua đánh giá về Các vấn đề xã hội và môi trường cần lưu ý đối với Dự án Quản lý rừng bền vững khu vực Tây bắc (SUSFORM-NOW) do Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ.

Chương trình giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam đã xác định các rủi ro về đảo nghịch và các tính năng thiết kế để giảm thiểu những rủi ro này[3].  Các rủi ro chính được xác định bao gồm: cháy, sâu bệnh, khai thác trái phép, mở rộng nông nghiệp không có kế hoạch và nông nghiệp tự cung tự cấp, phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ và quy mô lớn, và biến đổi khí hậu (do thay đổi về nhiệt độ và lượng mưa) và sự gia tăng về tần suất và cường độ của các hiện tượng cực đoan. Các chiến lược giảm thiểu để giải quyết những rủi ro này bao gồm: lập kế hoạch sử dụng đất có sự tham gia thông qua Phương pháp tiếp cận thích ứng và quản lý hợp tác của Chương trình giảm phát thải (ACMA); hỗ trợ cho việc không mở rộng đập và đường trong khu vực rừng; cải thiện trách nhiệm giải trình và 'quyền sở hữu' đối với các khu vực rừng thông qua quản lý hợp tác; và cải thiện hỗ trợ kỹ thuật và lựa chọn địa điểm và loài thích hợp cho rừng trồng. Chương trình giảm phát thải cũng sẽ tạo ra một vùng đệm trong đó lượng giảm phát thải từ Chương trình  có thể được giữ lại để bù đắp các rủi ro đảo nghịch tương lai trong Khu vực tính toán chi trả của Chương trình, và được quản lý thay mặt Quỹ Các-bon.

 

[1] NRAP 2017, Quyết định số 419 / QĐ-TTg ngày 5/4/2017. Phụ lục: Các chính sách và giải pháp thực hiện REDD + giai đoạn 2017 - 2020

[2] Quyết định số 5414/2015 / QĐ-BNN-TCLN của Bộ NN & PTNT về việc phê duyệt các hướng dẫn cho việc xây dựng Kế hoạch hành động REDD + cấp tỉnh.

[3] Quỹ đối tác các-bon trong lâm nghiệp (FCPF) Quỹ Các-bon. Tài liệu chương trình giảm phát thải (ER-PD). Ngày nộp: 5 tháng 1 năm 2018


Chương trình quốc gia về REDD+ (NRAP)[1] bao gồm một số chính sách và giải pháp nhằm giải quyết nguy cơ gia tăng phát thải, bao gồm quy hoạch tích hợp tổng thể, tăng cường thực thi luật lâm nghiệp (bao gồm các nghĩa vụ trồng bồi hoàn rừng giúp giải quyết rủi ro đảo nghịch), và qua tăng cường và liên tục cải thiện NFMS.

Là một nội dung trong chương trình  quốc gia về REDD+ của Việt Nam (2017), một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2016 để xác định các chiến lược khác nhau cho việc thực hiện REDD+[2], bao gồm ưu tiên giải quyết các nguyên nhân và rào cản, và một gói các chính sách và giải pháp để thực hiện 5 hoạt động REDD+. Phân tích tập trung vào các nguyên nhân và rào cản trực tiếp và gián tiếp gây ra thay đổi về sử dụng đất và rừng, bao gồm việc xem xét một loạt các yếu tố xã hội, chính trị và kinh tế, và mối liên hệ giữa các yếu tố này.

NRAP 2017 bao gồm một số chính sách và giải pháp có thể góp phần giải quyết rủi ro đảo nghịch, bao gồm: thúc đẩy quy hoạch sử dụng đất tổng hợp, tăng cường thực thi pháp luật lâm nghiệp (bao gồm các nghĩa vụ trồng bù đắp để giải quyết các rủi ro đảo nghịch) và tăng cường và liên tục cải thiện hệ thống giám sát rừng quốc gia (NFMS). Ngoài ra, việc đánh giá đồng lợi ích và rủi ro liên quan đến đảo nghịch đã xác định một loạt các giải pháp để giảm thiểu những rủi ro này và tăng cường đồng lợi ích. Những điều này đã được xem xét và đưa vào thiết kế của NRAP cũng như các chính sách và giải pháp của NRAP (xem F2.1.2).

 

[1] NRAP 2017, Quyết định số 419 / QĐ-TTg ngày 5/4/2017. Phụ lục: Các chính sách và biện pháp thực hiện REDD + giai đoạn 2017 - 2020

[2] Richard McNally, Vũ Tấn Phương, Nguyễn Thế Chiến, Phạm Xuân Phương, Nguyễn Việt Dũng (2016) Các vấn đề và lựa chọn: hỗ trợ cho việc sửa đổi Chương trình quốc gia về REDD+ của Việt Nam (NRAP), 2016-2020;


Việt Nam có các hệ thống giám sát sử dụng đất, sự thay đổi độ che phủ đất và rừng.[1] NFMS sẽ là nguồn thông tin chính để giám sát việc thực hiện các chính sách và giải pháp và góp phần vào việc giảm thiểu rủi ro đảo nghịch. Hệ thống thông tin quản lý ngành lâm nghiệp (FORMIS), hệ thống thông tin của Chính phủ cho ngành lâm nghiệp, cấu thành NFMS ở Việt Nam, dự kiến ​​sẽ cung cấp thông tin về các nguyên tắc đảm bảo an toàn Cancun (A - nhất quán về chính sách), (C) - kiến ​​thức và quyền của cộng đồng dân cư địa phương và người dân tộc thiểu số), (E - rừng tự nhiên, đa dạng sinh học và lợi ích xã hội & môi trường), (F - đảo nghịch), và (G - dịch chuyển phát thải), phù hợp với cách tiếp cận về đảm bảo an toàn của Việt Nam.

NFMS của Việt Nam bao gồm ba yếu tố chính[2]:

Chương trình điều tra, theo dõi và đánh giá tài nguyên rừng toàn quốc (NFIMAP): Dựa trên một loạt các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, NFIMAP đã được Viện Điều tra Quy hoạch Rừng thực hiện từ năm 1991, theo chu kỳ 5 năm, tới năm 2010. Dự án tổng điều tra kiểm kê rừng toàn quốc (NFIS) (xem bên dưới) đã được thực hiện trong giai đoạn 2011-2016. Chương trình sử dụng công nghệ viễn thám kết hợp với khảo sát mặt đất để theo dõi các thay đổi tài nguyên rừng. Dữ liệu từ hệ thống ô mẫu cũng được thu thập trong mỗi chu kỳ. NFIMAP hiện đang được xem xét để cải thiện và dự kiến ​​sẽ bắt đầu lại trong giai đoạn 2016-2020.

Các dự án tổng điều tra kiểm kê rừng toàn quốc (NFIS): Cũng dựa trên các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, một số dự án NFIS đã được thực hiện, kể cả trong giai đoạn 2011-2016. Trong Dự án NFIS mới nhất, có hai giai đoạn để tạo ra các bản đồ che phủ rừng: (i) “Giai đoạn khảo sát rừng” - giải thích hình ảnh viễn thám kết hợp với các khảo sát mặt đất; (ii) “Giai đoạn thống kê rừng” - bản đồ kiểm kê rừng được sử dụng làm đầu vào để phủ lên bản đồ ranh giới chủ rừng dựa vào địa giới hành chính để tạo “bản đồ thống kê rừng”). Bản đồ thống kê rừng được in ra cho từng chủ rừng để xác minh và sửa đổi khi cần thiết, tức là sử dụng phương pháp có sự tham gia. Trong giai đoạn kiểm kê rừng, một hệ thống ô mẫu được kiểm kê để ước tính trữ lượng trung bình cho mỗi loại các lô rừng được điều tra để đánh giá trữ lượng trung bình đối với từng loại rừng. Các dữ liệu lô mẫu này cũng có thể được sử dụng để ước tính trữ lượng các-bon trung bình trong bẻ hấp thụ trên mặt đất cho từng loại rừng.

• Chương trình theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp hàng năm (Chương trình số 32): Chương trình này đã được Cục Kiểm lâm thực hiện từ năm 2001 theo Chỉ thị số 32/2000 / CT-BNN-KL ngày 27/03/2000 [3]. Dựa trên bản đồ đường cơ sở rừng của Dự án NFIS mới nhất, kiểm lâm thu thập thông tin về những thay đổi trong các xã thuộc trách nhiệm của họ, và sau đó cập nhật những thay đổi này trong cơ sở dữ liệu. Những cập nhật này thường dựa trên các báo cáo từ các chủ rừng và không yêu cầu các hình ảnh viễn thám hoặc khảo sát thực địa. Dữ liệu sau đó được tổng hợp thông qua hệ thống của Cục Kiểm lâm từ xã đến huyện rồi đến cấp trung ương. Chương trình đã tạo ra một bộ dữ liệu về diện tích rừng và đất lâm nghiệp, được phân chia theo các tác nhân, chủ rừng, chức năng rừng và các đơn vị hành chính. Tuy nhiên, số liệu này vẫn còn một số hạn chế, bao gồm: (i) thiếu dữ liệu về trữ lượng rừng; và (ii) dữ liệu về thay đổi diện tích không thể được theo dõi không gian vì chúng không kết hợp với bản đồ.

 

[1] Luật Lâm nghiệp (2017, hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019), Điều 32-36; Nghị định số 23/2006 / NĐ-CP của Chính phủ, Điều 38-41; Thông tư số 34/2009 / TT-BNNPTNT của Bộ NN & PTNT; Thông tư số 78/2017 / TT-BNNPTNT của Bộ NN & PTNT.

[2] Quỹ Đối tác các-con trong lâm nghiệp (FCPF) Quỹ Các-bon. Tài liệu chương trình giảm phát thải (ER-PD). Ngày nộp: 5 tháng 1 năm 2018

[3] Chỉ thị số 32/2000 / CT-BNN-KL ngày 27/03/2000