Safeguard E Detail

Nội dung với đánh dấu (tag) address times .


Khung pháp lý của Việt Nam phân biệt rừng tự nhiên với rừng trồng dựa trên nguồn gốc của rừng. Rừng tự nhiên được định nghĩa rõ ràng là “rừng tồn tại trong tự nhiên hoặc phục hồi bằng tái sinh tự nhiên”. [1] Rừng tự nhiên được phân thành hai loại: rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh. Trong khi rừng nguyên sinh là rừng mà chưa hoặc ít bị ảnh hưởng bởi con người hoặc các thảm họa tự nhiên và có một cấu trúc tương đối ổn định, thì các khu rừng thứ sinh đều bị ảnh hưởng bởi con người hoặc thiên tai, dẫn đến những thay đổi trong cấu trúc của chúng. Rừng thứ sinh bao gồm rừng phục hồi tự nhiên là rừng được hình thành thông qua tái sinh tự nhiên (sử dụng các loài bản địa) trên diện tích đất rừng đã bị mất do mở rộng đất canh tác, cháy rừng, khai thác cạn kiệt, và rừng sau khai thác là rừng đã bị khai thác gỗ hoặc các lâm sản khác.

 

[1] Thông tư số 34/2009 / TT-BNNPTNT (2009) của Bộ NN & PTNT, Điều 5; Luật Lâm nghiệp (2017), Điều 2 (6).


Việt Nam định nghĩa đa dạng sinh học là sự phong phú của các gen, sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên [1].


[1] Theo Điều 3 (5) của Luật Đa dạng sinh học năm 2008


Theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng (2004), việc thay đổi mục đich sử dụng đất  của rừng tự nhiên sang một mục đích khác phải dựa vào các tiêu chí và điều kiện chuyển đổi được Chính phủ quy định[1].Luật Lâm nghiệp (2017) mới được thông qua gần đây (năm 2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019), nghiêm cấm một cách rõ ràng việc chuyển đổi rừng tự nhiên (trừ trường hợp các dự án quan trọng cấp quốc gia, các dự án quốc phòng hoặc các dự án đặc biệt khác được Chính phủ thông qua) [2]. Những yêu cầu về  Đánh giá tác động môi trường (EIA) và Đánh giá tác động xã hội (SIA) trong xây dựng quy hoạch tổng thể về sử dụng đất và đánh giá các rủi ro và lợi ích tiềm ẩn của REDD+ cho các PRAP cũng ngăn ngừa việc chuyển đổi đất rừng tự nhiên[3].

Hướng dẫn thực hiện Luật Lâm nghiệp (năm 2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019) chưa được ban hành. Hướng dẫn thực hiện Luật Lâm nghiệp sẽ được chuẩn bị cho tham vấn, sửa đổi và ban hành.

Bộ NN &PTNT là đầu mối cho  cho việc thực hiện pháp luật về rừng ở Việt Nam. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ TN&MT các Bộ, cơ quan ngang Bộ khác có trách nhiệm hơp tác với Bộ NN&PTNT trog việc thực hiện quản lý nhà nước về rừng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Ở cấp tỉnh, Sở NN&PTNT có trách nhiệm xây dựng PRAP trình UBND tỉnh thẩm định và phê duyệt. Bộ NT&MT, Sở TN&MT trong phạm vi địa phương mình có trách nhiệm kiểm tra, thẩm định và phê duyệt đánh giá tác động môi trường xã hội.


[1] Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2004), Điều 27; xem Nghị định số 23/2006 / NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định số 34/2011 / QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
[2] Luật Lâm nghiệp (2017, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019), Điều 14.
[3] Nghị định 18/2015 / NĐ-CP của Chính phủ; Bộ NN & PTNT số 5414/2015/QĐ-BNN-TCLN.


Một số lợi ích và rủi ro tiềm ẩn liên quan đến việc không chuyển đổi rừng tự nhiên, đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái đã được xác định thông qua các quy trình lập kế hoạch REDD + ở cấp quốc gia và cấp địa phương. Những lợi ích và rủi ro này, và các biện pháp được đề xuất để tăng cường lợi ích và giảm thiểu rủi ro, được thảo luận chi tiết trong nguyên tắc đảm bảo an toàn E3.1.2, trong đó xem xét việc bảo tồn rừng tự nhiên và đa dạng sinh học. Nguyên tắc đảm bảo an toàn E3 cũng cung cấp thông tin về các chính sách và giải pháp trong Chương trình quốc gia về REDD+ về hỗ trợ bảo tồn rừng tự nhiên.


Bảo tồn rừng tự nhiên được xem xét thông qua Luật Lâm nghiệp (2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019), trong đó nghiêm cấm một cách rõ ràng việc chuyển đổi rừng tự nhiên (trừ trường hợp các dự án quan trọng cấp quốc gia, các dự án quốc phòng hoặc các dự án đặc biệt khác được Chính phủ thông qua).[1]

Việt Nam cũng có một số chính sách, luật và quy định hỗ trợ công tác bảo tồng đa dạng sinh học. Sự tham gia của các bên liên quan trong phát triển lâm nghiệp, bảo vệ thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và cung cấp các dịch vụ môi trường là cần thiết, đóng góp cho công cuộc xoá đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống ở các vùng nông thôn miền núi[2]. Những hệ sinh thái và khu vực đa dạng sinh học quan trọng, những mối đe doạ đối với đa dạng sinh học, và ưu tiên các biện pháp bảo tồn tại môi trường tự nhiên (in-situ) và bên ngoài (ex-situ) đã được xác định, đồng thời các nhiệm vụ bảo tồn đã được giao cụ thể cho từng vùng trên cả nước, bao gồm việc xây dựng các hành lang bảo tồn[3]. Lập kế hoạch phát triển lâm nghiệp phải thống nhất với chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học[4]. Việc bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng, đặc thù hoặc đặc trưng cho mỗi vùng sinh thái và việc bảo tồn các loài sinh vật bị đe doạ được ưu tiên[5. Việc khai thái trái phép các tài nguyên thiên nhiên bị nghiêm cấm, và những đánh giá kinh tế - xã hội sẽ được thực hiện đối với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như các chiến lược và kế hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên[6].

Đánh giá tác động môi trường sẽ được thực hiện ở những khu vực nằm trong các khu bảo tồn động vật hoang dã, các vườn quốc gia, các di tích lịch sử - văn hoá, những điểm di sản thế giới, vùng dự trữ sinh quyển, những khu vực cảnh đẹp đã được xếp hạng hoặc các dự án có thể tạo ra những tác động môi trường tiêu cực.[7] Lợi ích môi trường và xã hội và đánh giá rủi ro cũng phải được thực hiện trong quá trình xây dựng các PRAP, bao gồm xem xét những tác động của các biện pháp PRAP đối với đa dạng sinh học.[8]

Bộ TN&MT, Sở TN&MT trong phạm vi địa phương mình có trách nhiệm đối với các dự án đặc biệt về bảo tồn đa dạng sinh học trong cả nước. Sở NN &PTNT và Ban quản lý rừng (đặc biệt là các rừng đặc dụng) có trách nhiệm đối với việc bảo tồn rừng và động vật hoang dã trong phạm vi địa phương mình.

[1] Luật Lâm nghiệp (2017, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019), Điều 14.
[2] Chiến lược phát triển rừng, giai đoạn 2006-2020.
[3] Quyết định số 155/2013 / QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 45/2014 / QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
[4] Luật Lâm nghiệp (2017, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019), Điều 10.
[5] Luật Đa dạng Sinh học (2008), Điều 5.
[6] Luật Bảo vệ môi trường (2014), Điều 13; Nghị định số 18/2015 / NĐ-CP.
[7] Luật Bảo vệ môi trường (2014), Điều 18; Thông tư số 27/2014 / TT- BTNMT của Bộ TN & MT; Thông tư số 09/2014 / TT-BNNPTNT của Bộ NN & PTNT.
[8] Quyết định số 5414/2015 / QĐ-BNN-TCLN của Bộ NN & PTNT.


Các nguyên tắc, mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của Chương trình quốc gia về REDD+ của Việt Nam (2017)[1] đề cập đến việc bảo tồn và tăng cường rừng tự nhiên. Ví dụ, một trong những mục tiêu trong giai đoạn 2017-2020 là “cải thiện chất lượng rừng tự nhiên và rừng trồng để tăng trữ lượng các-bon và các dịch vụ môi trường rừng , nhân rộng mô hình rừng trồng, quản lý bền vững, bảo vệ và bảo tồn rừng tự nhiên hiệu quả”.

Một số chính sách và giải pháp trong Chương trình quốc gia về REDD+ nhằm mục đích bảo tồn rừng tự nhiên và có thể được mong đợi hỗ trợ cho công tác bảo tồn các dịch vụ hệ sinh thái và đa dạng sinh học của rừng. Ví dụ:

  • Tiếp tục rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất của tỉnh để đạt mục tiêu 16,24 triệu ha vào năm 2020, bao gồm cả việc thúc đẩy đánh giá tác động môi trường;
  • Thúc đẩy nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản bền vững và không gây mất rừng, chẳng hạn như thí điểm và nhân rộng các mô hình bền vững và chống chịu được với khí hậu cho nuôi trồng thủy sản, cà phê, cao su và sắn;
  • Thí điểm, đánh giá và nhân rộng các mô hình bền vững để tăng cường, bảo vệ và bảo tồn rừng tự nhiên, bao gồm rừng sản xuất và rừng đặc dụng là rừng tự nhiên, phục hồi và làm giàu rừng với các loài bản địa; và
  • Tăng cường môi trường kinh tế và tài chính cho rừng, bao gồm định giá kinh tế rừng và lồng ghép giá trị rừng vào các quá trình tài chính quốc gia (ví dụ GDP).

Ngoài ra, các lợi ích và rủi ro về môi trường và xã hội của các chính sách và giải pháp trong Chương trình quốc gia về REDD+ được đánh giá vào năm 2017, và các biện pháp giảm thiểu rủi ro và gia tăng đồng lợi ích được đề xuất. Điều này bao gồm một số lợi ích và rủi ro liên quan đến bảo tồn rừng tự nhiên và đa dạng sinh học:

  • Bảo tồn đa dạng sinh học có thể được cải thiện thông qua việc duy trì rừng tự nhiên hoặc khôi phục hệ sinh thái rừng, và thông qua việc duy trì hoặc cải thiện kết nối môi trường sống rừng;
  • Có thể có nguồn cung cấp hàng hóa rừng và dịch vụ hệ sinh thái được cải thiện hoặc duy trì (vốn tự nhiên);
  • Khả năng phục hồi và thích ứng với biến đổi khí hậu và các tác động liên quan của nó có thể tăng lên;
  • Mất rừng tự nhiên liên tục, rừng có giá trị các-bon cao hoặc rừng đem lại các dịch vụ hệ sinh thái quan trọng khác có thể xảy ra;
  • Các khoản đầu tư, ưu đãi và giá thị trường tiềm năng cao hơn trong nông nghiệp có thể làm cho sản xuất cây trồng hiệu quả hơn hoặc hấp dẫn hơn, và là nguyên nhân dẫn đến việc mất rừng trong thời gian dài hoặc trên quy mô lớn;
  • Việc giao đất giao rừng và quản lý rừng hợp tác có thể dẫn đến những tác động bất lợi đến bảo vệ rừng và hợp pháp hóa việc sử dụng rừng và đất lâm nghiệp không bền vững;
  • Các mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ có thể dẫn đến khai thác quá mức và / hoặc suy thoái và / hoặc mất rừng (ví dụ: mở rộng diện tích trồng tre qua các loại rừng tự nhiên khác);
  • Có nguy cơ cháy và sâu bệnh / dịch bệnh trong các khu rừng trồng;
  • Thiếu chăm sóc hoặc bỏ hoang rừng trồng ven biển trên đất được phân loại là rừng phòng hộ hoặc rừng đặc dụng;
  • Ngập lụt trong rừng Tràm có thể dẫn đến các tác động bất lợi đến đa dạng sinh học và phát thải khí nhà kính;
  • Cơ chế tín dụng xanh có thể được sử dụng để hỗ trợ các khoản đầu tư không bền vững, với các tác động tiêu cực đến rừng và / hoặc phát thải khí nhà kính;
  • Rủi ro suy thoái đất, nước và đa dạng sinh học liên quan đến việc sử dụng hóa chất nông nghiệp để cải thiện năng suất.

Các giải pháp được đề xuất trong quá trình đánh giá này nhằm tăng cường đồng lợi ích của REDD + và giảm thiểu các rủi ro liên quan đến đảo nghịch bao gồm:

  • Bảo tồn và bảo vệ rừng tự nhiên cần được ưu tiên trong quy trình lập kế hoạch sử dụng đất, áp dụng đánh giá môi trường chiến lược trong sử dụng đất và lập kế hoạch ngành, và đảm bảo các công cụ hỗ trợ quyết định cho REDD+ kết hợp giá trị dịch vụ đa dạng sinh học và hệ sinh thái;
  • Cơ chế tài chính xanh nên bao gồm các biện pháp bảo vệ môi trường rõ ràng như tiêu chí và thủ tục sàng lọc các khoản đầu tư được đề xuất, tiến hành kiểm tra và giám sát;
  • Để giảm chuyển đổi rừng sang nông nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống giám sát và truy xuất nguồn gốc, bổ sung bằng cách tăng cường giám sát và thực thi kế hoạch sử dụng đất tại các điểm nóng ưu tiên về mất rừng;
  • Kiểm kê phải được tiến hành trên cơ sở hiện trạng rừng được giao, cũng như các nghiên cứu để nhận thức rõ hơn về quyền sở hữu, nghèo đói, người phụ thuộc vào rừng/sử dụng rừng và tính dễ bị tổn thương. Lập bản đồ và tham vấn có sự tham gia về giao đất lâm nghiệp và các lựa chọn đồng quản lý cần được thực hiện, bao gồm cả việc có thể thúc đẩy giao rừng cho các nhóm cộng đồng
  • Cải thiện tín dụng và hỗ trợ sinh kế khác, như cải thiện sinh kế nông nghiệp cho phép các hộ gia đình đầu tư nhiều nguồn lực hơn vào bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên;
  • Các mô hình bền vững được xác định cho nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản nên lồng ghép các thực hành giảm thiểu việc sử dụng hóa chất nông nghiệp và nước;
  • Các mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ và các hoạt động liên quan nên thúc đẩy bảo vệ và tăng cường rừng tự nhiên; thủ tục sàng lọc nên được phát triển để loại bỏ các khoản đầu tư không phù hợp;
  • Các hướng dẫn thực hành cho trồng rừng / phục hồi rừng và quản lý rừng trồng ở cấp cơ sở cần được xây dựng, bao gồm lựa chọn địa điểm / loài, thiết kế rừng trồng, kiểm soát dịch hại, phòng cháy, vv;
  • Các hoạt động quản lý bền vững tài nguyên rừng và chứng chỉ cho rừng trồng cần được thúc đẩy thông qua cải thiện tiếp cận các dịch vụ tư vấn;
  • Nghiên cứu chi tiết và xem xét các tác động đến đa dạng sinh học và hệ sinh thái rộng lớn hơn từ các can thiệp ảnh hưởng đến mực nước cũng như tác động từ hoạt động xây dựng cần được thực hiện và đưa vào kế hoạch quản lý các khu vực tràm.

Hướng dẫn quốc gia về xây dựng PRAP cũng đưa ra những yêu cầu về đánh giá rủi ro và lợi ích môi trường và xã hội của các chính sách và giải pháp có trong kế hoạch[2].Các đánh giá rủi ro và lợi ích môi trường và xã hội của các giải pháp và chính sách REDD+, đặc biệt cấp tỉnh, đã được tiến hành thông qua Đánh giá xã hội và môi trường chiến lược (SESA) trong quá trình xây dựng Chương trình Giảm phát thải ở các tỉnh ven biển vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam do FCPF tài trợ[3], và  thông qua đánh giá về Các vấn đề xã hội và môi trường cần lưu ý đối với Dự án Quản lý rừng bền vững khu vực Tây bắc (SUSFORM-NOW) do Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ.

Trong trường hợp của Chương trình giảm phát thải ở vùng biển Bắc Trung Bộ, SESA đã xác định một số tác động môi trường tiềm năng quan trọng, cả tích cực và tiêu cực, bao gồm nguy cơ chuyển đổi rừng tự nhiên sang trồng rừng và tác động đến đa dạng sinh học và kết nối đa dạng sinh học. Ví dụ[2]:

  • Việc tái sinh tự nhiên và làm giàu có thể dẫn đến các tác động như thiệt hại phá hủy môi trường và xói lở ở mức độ thấp, khai thác quá mức các lâm sản ngoài gỗ, nhưng bên cạnh đó đồng thời mang lại lợi ích lâu dài hơn do cải thiện môi trường sống cho đa dạng sinh học.
  • Trồng rừng / phục hồi rừng với keo và các loài hỗn hợp và xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng và phát triển khác có thể dẫn đến mất rừng tự nhiên còn sót lại đối với rừng trồng.
  • Các hoạt động xây dựng thể chế và năng lực nên dẫn đến cải thiện quản trị rừng, góp phần bảo vệ đa dạng sinh học và cải thiện quản lý cảnh quan.
  • Các tác động môi trường có thể xảy ra nếu các hoạt động do cộng đồng dân cư lựa chọn và các thực thể quản lý rừng không hỗ trợ cho việc bảo tồn rừng hoặc đa dạng sinh học.

Các chương trình thiết kế sau đây đã được đề xuất để giảm thiểu rủi ro môi trường trong ER-P:

  • Quy hoạch sử dụng đất và thiết kế các hoạt động thực địa của chương trình:

  • Các hoạt động phát triển trồng rừng theo ER-P sẽ chủ yếu được thực hiện với các hộ sản xuất nhỏ hơn là thông qua các đồn điền quy mô lớn. Rừng sản xuất được giao cho các hộ có rừng tự nhiên sẽ không được lựa chọn, cũng không được thực hiện tại các khu bảo tồn hoặc các khu rừng có giá trị bảo tồn cao. Cơ sở trồng rừng sẽ tuân theo các kinh nghiệm thực tiễn của SFM và không nên thay thế rừng tự nhiên, bao gồm việc lập bản đồ các diện tích rừng còn lại, nhận thức, liên kết phát triển trồng rừng với chứng chỉ FSC và chia sẻ lợi ích cho việc bảo vệ rừng tự nhiên.

  • Các quy tắc thực hành cho phát triển trồng rừng: Khung quản lý môi trường và xã hội (ESMF) xác định nhu cầu cần có hướng dẫn rõ ràng để hỗ trợ phát triển rừng trồng. Những hướng dẫn này sẽ quy định các biện pháp quản lý tác động môi trường trong chín lĩnh vực chính: lựa chọn địa điểm, lựa chọn loài; chế độ quản lý, thành lập rừng trồng; trồng rừng; kiểm soát dịch hại tổng hợp; phòng chống cháy nổ; tiếp cận và thu hoạch; và theo dõi và đánh giá.

  • Giám sát độc lập: ER-P sẽ hỗ trợ một hệ thống giám sát và đánh giá toàn diện, bao gồm các quy trình thu thập dữ liệu từ định lượng và định tính từ dưới lên để theo dõi và báo cáo độ che phủ rừng.

 

[1] Chương trình quốc gia về REDD+ 2017

[2] Tài liệu chương trình giảm phát thải (ER-PD). Ngày đệ trình: 5 tháng 1 năm 2018


Nghị định Số 99/2010/ND-CP về Chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) [1] định nghĩa các loại dịch vụ môi trường rừng (bao gồm hấp thụ và lưu trữ các-bon) và tạo ra một cơ chế cho các bên sử dụng dịch vụ môi trường chi trả cho bên cung ứng dịch vụ gồm các Ban quản lý rừng nhà nước, các hộ gia đình các cộng đồng. Nghị định cũng nêu ra những phương pháp chi trả thông qua quỹ được quản lý bởi trung ương hoặc các tỉnh và cách chia sẻ lợi ích cho bên cung cấp dịch vụ.

Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ hỗ trợ việc giảm nghèo nhanh và bền vững ở 61 huyện nghèo[2] đã cung cấp một cơ chế cho các hộ gia đình nghèo được hỗ trợ kinh phí để đầu tư vào rừng trồng và/hoặc được hỗ trợ tham gia hợp đồng khoán bảo vệ và phát triển rừng.

Nghị định 75/2015/NĐ-CP[3] đưa ra các cơ chế hỗ trợ các hộ nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số tham gia các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng thông qua các biện pháp khuyến khích về kinh tế.

Nghị định 117/2010/NĐ-CP[4] về Tổ chức và Quản lý Rừng đặc dụng cũng quy định vai trò của các Ban quản lý và các định hướng hỗ trợ bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học. Nghị định quy định về đầu tư cho các khu vùng đệm bao gồm hỗ trợ phát triển cộng đồng/sinh kế ở các làng/xã xung quanh. Thông tư 78/2011/TT-BNNPTNN[5] của Bộ NN&PTNT đưa ra các quy định chi tiết cho việc thực hiện Nghị định.

Thông tư 38/2014/TT-BNNPTNT cung cấp các hướng dẫn về phương án quản lý rừng bền vững[6] yêu cầu đảm bảo sự tham gia của cộng đồng để họ có thể hương lợi từ các lợi ích kinh tế - xã hội từ quản lý rừng bền vững.

Bộ NT&MT, Sở TN&MT trong phạm vi địa phương mình có trách nhiệm lập kế hoạch hoạch bảo vệ và phát triển rừng. Ban quản lý rừng có trách nhiệm xây dựng kế hoạch quản lý cấp cơ sở dưới sự kiểm tra, giám sát của Sở NN &PTNT, và thực hiện quản lý bảo tồn và phát triển vùng đệm. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện và xã có trách nhiệm thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo. Sở NN & PTNT và Quỹ bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh có trách nhiệm thu và chi trả phí dịch vụ môi trường rừng.

 

[1] Nghị định số 99/2010 / NĐ-CP của Việt Nam về chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES)
[2] Quyết định 30a / 2008 / NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững ở 61 huyện nghèo
[3] Nghị định số 75/2015 / NĐ-CP
[4] Nghị định số 117/2010 / NĐ-CP về quản lý và tổ chức rừng đặc dụng
[5] Thông tư số 78/2011 TT-BNNPTNN
[6] Thông tư số 38/2014 / TT-BNN của Bộ NN & PTNT về hướng dẫn lập kế hoạch quản lý rừng bền vững


Chương trình REDD+ quốc gia (2017)[1] có quan điểm 1.5 về tối ưu hóa các lợi ích của rừng và huy động các nguồn lực cho công tác bảo vệ và quản lý:

“Chương trình REDD+ đóng góp tích cực vào việc chuyển dịch ưu tiên sang cải thiện chất lượng rừng tự nhiên và rừng trồng, hạn chế mất rừng nhằm tối đa hóa các lợi ích xã hội, kinh tế và môi trường; khai thác giá trị dịch vụ môi trường rừng, tạo nguồn tài chính bền vững cho bảo vệ và phát triển rừng.“

Một số chính sách và giải pháp trong Chương trình quốc gia về REDD+ cũng nhằm cải thiện việc cung cấp các ưu đãi cho việc bảo tồn rừng, bao gồm rừng tự nhiên và các dịch vụ đa dạng sinh học và hệ sinh thái của chúng. Bao gồm:

  • Cải thiện quản trị rừng và sinh kế cho những người sống gần và trong rừng, như hỗ trợ quản lý hợp tác rừng tự nhiên và các chương trình sinh kế và việc làm cho người dân ở các điểm nóng về mất rừng và suy thoái rừng;
  • Thí điểm, đánh giá và nhân rộng các mô hình bền vững để tăng cường, bảo vệ và bảo tồn rừng tự nhiên, bao gồm hợp tác giữa các chủ rừng, cộng đồng dân cư địa phương và khu vực tư nhân về các mô hình kinh doanh góp phần bảo tồn rừng (ví dụ: lâm sản ngoài gỗ và các dịch vụ môi trường khác);
  • Tăng cường môi trường kinh tế và tài chính cho rừng, như đầu tư xanh và cơ chế tín dụng để bảo vệ và phát triển rừng, phát triển và thử nghiệm định giá kinh tế rừng với lồng ghép giá trị rừng vào các quy trình tài chính quốc gia và đánh giá tính khả thi của thị trường các-bon nội địa.

Thông tin trong phần Nguyên tắc ĐBAT B2.3 về chia sẻ lợi ích cũng liên quan đến nguyên tắc ĐBAT này về những khuyến khích cho bảo tổn. Như đã nêu trong B2.3, Một phần của việc thực hiện NRP là Nhà nước sẽ ban hành hướng dẫn thực hiện cơ chế chia sẻ lợi ích REDD+, và cơ chế đồng quản lý cho rừng đặc dụng, dựa trên kết quả các hoạt động thí điểm REDD+ về chia sẻ lợi ích, và cơ chế đồng quản lý cho rừng đặc dụng, dựa trên kết quả các hoạt động thí điểm REDD+ về chia sẻ lợi ích, và trong một số cơ chế chia sẻ lợi ích trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng.[3] Như đã nói ở trên, NRAP (2017) đề xuất các hoạt động để thiết lập và thực hiện các cơ chế quản lý tài chính cho REDD+, bao gồm nghiên cứu về hệ thống chia sẻ lợi ích phù hợp và quyền các-bon cho REDD+, phù hợp với các cơ chế khuyến khích và các quy định liên quan, trong đó có đánh giá cơ chế khuyến khích hiện tại và tiềm năng cho bảo vệ và phát triển rừng, xây dựng quy định về quyền các-bon rừng và hoàn thiện hệ thống chia sẻ lợi ích REDD+, lồng ghép vào cảnh quan rừng của Việt Nam. Xem Nguyên tắc ĐBAT B2.3 để biết thêm thông tin.

 

[1] Chương trình REDD+ quốc gia 2017, Quyết định số 419 / QĐ-TTg ngày 5/4/2017. Phụ lục: Các chính sách và biện pháp thực hiện REDD + giai đoạn 2017 - 2020
[2] Thực hiện theo Quyết định số 5399/2015 / QĐ-BNN-TCLN của Bộ NN & PTNT về việc ban hành các quy định về thí điểm phân phối lợi ích REDD + trong khuôn khổ Chương trình UN-REDD Việt Nam giai đoạn II.
[3] Thực hiện theo Quyết định số 126/2012 / QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách thí điểm về cơ chế chia sẻ lợi ích trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, thí điểm tại VQG Bạch Mã và Xuân Thủy.


Khung chính sách và pháp lý của Việt Nam, trong đó có Chiến lược phát triển lâm nghiệp (2006-2020)[2], Kế hoạch Bảo vệ và phát triển rừng (2011-2020), Chương trình mục tiêu về phát triển lâm nghiệp bền vững (2016 -2020)[3], và Chương rình mực tiêu quốc gia về phát triển nông thôn mới và xoá đói giảm nghèo (2016-2020)[4], đều nhấn mạnh đóng góp của ngành lâm nghiệp cho phát triển kinh tế, xoá đói giảm ngèo và bảo vệ môi trường.

Luật Lâm nghiệp (2017) yêu cầu “đảm bảo quản lý rừng bền vững; khai thác, sử dụng rừng gắn với bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên, nâng cao giá trị kinh tế và giá trị văn hoá, lịch sử của rừng; bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và nâng cao sinh kế của người dân”[5].

 

[1] Luật Lâm nghiệp (2017, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019), Điều 10
[2] Quy hoạch tổng thể ngành lâm nghiệp quốc gia (2011-2020)

[3] Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển rừng bền vững (2017-2020)

[4] Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nông thôn mới và xóa đói giảm nghèo (2016-2020)

[5] Luật Lâm nghiệp (2017, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019), Điều 10


Chương trình quốc gia về REDD+ (NRAP) bao gồm một số chính sách và giải pháp (PaM) nhằm mục tiêu nâng cao lợi ích môi trường và xã hội, bao gồm: hỗ trợ các quá trình lập kế hoạch tích hợp hướng tới đạt được mục tiêu che phủ rừng quốc gia; khuyến khích sự tham gia của công chúng trong công tác đánh giá tác động môi trường và xã hội để cải thiện quyết sách sử dụng đất (tăng cường các lợi ích và giảm thiểu rủi ro về môi trường và xã hội); hỗ trợ nông dân phát triển các mô hình nông nghiệp bền vững cho các mặt hàng chính; thúc đẩy giao đất rừng cho các hộ gia đình và cộng đồng và sinh kế bền vững cho những cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng; thúc đấy lâm nghiệp bền vững, phát triển các phương pháp tính toán Tổng giá trị kinh tế (TEV) của rừng và sử dụng số liệu này cho các quyết sách về sử dụng đất trong tương lai.

Các lợi ích chung về môi trường và xã hội của các Chính sách và Giải pháp trong Chương trình quốc gia về REDD+ đã được đánh giá, đồng thời việc cải thiện các lợi ích chung và giảm thiểu rủi ro cũng đã được xác định.

Các lợi ích chung về môi trường và xã hội của việc thực hiện Chương trình REDD+ quốc gia gồm:

  • Bảo tồn đa dạng sinh học thông qua việc duy trì rừng tự nhiên hoặc phục hồi hệ sinh thái rừng, và qua sự kết nối của môi trường rừng được duy trì và cải thiện.
  • Cải thiện (hoặc duy trì) trữ lượng sản phẩm rừng và dịch vụ hệ sinh thái (nguồn vốn tự nhiên).
  • Cải thiện quyền tiếp cận và sử dụng đất và tài nguyên rừng (nguồn vốn tự nhiên).
  • Tạo ra những cơ hội việc làm vùng nông thôn, tăng thu nhập và đa dạng hoá nguồn thu nhập từ hoạt động lâm nghiệp, bao gồm từ tham gia bảo vệ rừng cũng như từ các hoạt động phi lâm nghiệp (nguồn vốn tài chính) cho các hộ gia đình và cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng, đặc biệt là các hộ ngheo.
  • Nâng cao hiểu biết, kiến thức và năng lực (nguồn vốn nhân lực) giữa các nhóm người thụ hưởng và xã hội dân sự tham gia vào các hoạt động REDD+.
  • Tăng cường kết nối và mạng lưới (nguồn vốn xã hội) trong cộng đồng và xã hội tạo ra kết quả tích cực cho người nghèo phụ thuộc vào rừng và các nhóm dễ bị tổn thương.
  • Nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng cộng đồng (nguồn vốn vật chất) cho cộng đồng nghèo và vùng sâu vùng xa.
  • Nâng cao khả năng chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu và các tác động liên quan.
  • Nâng cao khung quản trị về sử dụng đất và rừng góp phần cải thiện tiềm năng sinh kế.

Các rủi ro chính về môi trường và xã hội của việc thực hiện REDD+ tại Việt Nam bao gồm:

  • Tiếp tục mất rừng tự nhiên, rừng có giá trị các-bon cao hoặc các khu rừng thực hiện các dịch vụ môi trường quan trọng khác
  • Chuyển đổi các môi trường sống tự nhiên không có rừng gây ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, dịch vụ hệ sinh thái, trữ lượng các- bon đất và kết nối sinh thái (phân mảnh sinh cảnh/môi trường sống)
  • Không đánh giá hoặc đánh giá không đầy đủ mức độ phù hợp của đất đai đối với sản xuất nông nghiệp/ lâm nghiệp
  • Mất đi tài sản sản xuất, không được tiếp cận hoặc mất quyền sử dụng rừng/đất lâm nghiệp và do đó làm tăng xung đột về sử dụng đất.
  • Thiếu tính minh bạch, không được tham gia và/hoặc tác động tới quá trình tham vấn trong đánh giá tác động môi trường và xã hội
  • Các nguồn đầu tư, ưu đãi và giá cả thị trường có khả năng tăng cao trong nông nghiệp có thể làm cho sản xuất hiệu quả/hấp dẫn hơn và cũng là tác nhân gây mất rừng trong thời gian dài với quy mô lớn hơn
  • Rủi ro suy thoái đa dạng sinh học, nước và đất đai song hành với việc sử dụng hóa chất nông nghiệp nhằm tăng sản lượng
  • Cơ chế tài chính và mô hình vườn ươm doanh nghiệp phục vụ tốt hơn lợi ích của khu vực tư nhân mà không phải các hộ gia đình nhỏ, và/hoặc tăng lợi nhuận cho khu vực tư nhân với chi phí của các hộ gia đình.
  • Gia tăng tính dễ bị tổn thương đối với các cú sốc/xu hướng kinh tế
  • Việc giao đất rừng và cách thức quản lý liên kết, hợp tác có thể dẫn tới các tác động trái chiều đối với việc bảo vệ rừng và có thể hợp pháp hóa việc sử dụng rừng và đất rừng không bền vững.    
  • Các mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ có thể dẫn đến khai thác quá mức lâm sản ngoài gỗ và/hoặc suy thoái/phá rừng để sản xuất (ví dụ: trồng tre trên đất rừng tự nhiên)
  • Hạn chế tiếp cận các tài nguyên nhằm phục vụ sinh kế
  • Phân phối lợi ích không công bằng, bị bỏ lại đằng sau và nhóm lợi ích trong việc sử dụng tài nguyên Phát triển rừng trồng và nguy cơ lây nhiễm bệnh
  • Yếu kém trong quản lý và quy hoạch rừng trồng và các ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học và đất đai
  • Nguy cơ cháy rừng trồng
  • Chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với đất rừng
  • Thiếu quan tâm chăm nuôi hoặc loại bỏ các khu rừng trồng ven biển tại các khu vực là rừng phòng hộ hoặc rừng đặc dụng.
  • Xung đột quyền sử dụng đất, mất tài sản sản xuất (đất đai), hạn chế tiếp cận và tác động sinh kế do việc hình thành các khu rừng trồng mới
  • Các cơ chế tài chính và việc phục vụ quyền lợi đối với khu vực tư nhân tốt hơn so với hộ gia đình. 
  • Phân phối lợi ích không công bằng trong quản lý rừng cộng đồng
  • Ngập lụt trong các rừng tràm dẫn đến các tác động có hại đối với đa dạng sinh học và khí thải nhà kính
  • Cơ chế tín dụng xanh được sử dụng cho các đầu tư không bền vững
  • Đầu tư xanh và cơ chế tín dụng xanh phục vụ tốt hơn quyền lợi của khu vực tư nhân so với hộ gia đình.

Các giải pháp được đề xuất trong quá trình đánh giá này nhằm tăng cường đồng lợi ích của REDD + và giảm thiểu các rủi ro liên quan đến đảo nghịch bao gồm:

  • Bảo tồn và bảo vệ rừng tự nhiên cần được ưu tiên trong quy trình lập kế hoạch sử dụng đất, áp dụng đánh giá môi trường chiến lược trong sử dụng đất và lập kế hoạch ngành, và đảm bảo các công cụ hỗ trợ quyết định cho REDD+ kết hợp giá trị dịch vụ đa dạng sinh học và hệ sinh thái;
  • Cơ chế tài chính xanh nên bao gồm các biện pháp bảo vệ môi trường rõ ràng như tiêu chí và thủ tục sàng lọc các khoản đầu tư được đề xuất, tiến hành kiểm tra và giám sát;
  • Để giảm chuyển đổi rừng sang nông nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống giám sát và truy xuất nguồn gốc, bổ sung bằng cách tăng cường giám sát và thực thi kế hoạch sử dụng đất tại các điểm nóng ưu tiên về mất rừng;
  • • Kiểm kê phải được tiến hành trên cơ sở hiện trạng rừng được giao, cũng như các nghiên cứu để nhận thức rõ hơn về quyền sở hữu, nghèo đói, người phụ thuộc vào rừng/sử dụng rừng và tính dễ bị tổn thương. Lập bản đồ và tham vấn có sự tham gia về giao đất lâm nghiệp và các lựa chọn đồng quản lý cần được thực hiện, bao gồm cả việc có thể thúc đẩy giao rừng cho các nhóm cộng đồng;
  • Cải thiện tín dụng và hỗ trợ sinh kế khác, như cải thiện sinh kế nông nghiệp cho phép các hộ gia đình đầu tư nhiều nguồn lực hơn vào bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên;
  • Các mô hình bền vững được xác định cho nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản nên lồng ghép các thực hành giảm thiểu việc sử dụng hóa chất nông nghiệp và nước;
  • Các mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ và các hoạt động liên quan nên thúc đẩy bảo vệ và tăng cường rừng tự nhiên; thủ tục sàng lọc nên được phát triển để loại bỏ các khoản đầu tư không phù hợp;
  • Các hướng dẫn thực hành cho trồng rừng / phục hồi rừng và quản lý rừng trồng ở cấp cơ sở cần được xây dựng, bao gồm lựa chọn địa điểm / loài, thiết kế rừng trồng, kiểm soát dịch hại, phòng cháy, vv;
  • Các hoạt động quản lý bền vững tài nguyên rừng và chứng chỉ cho rừng trồng cần được thúc đẩy thông qua cải thiện tiếp cận các dịch vụ tư vấn;
  • Nghiên cứu chi tiết và xem xét các tác động đến đa dạng sinh học và hệ sinh thái rộng lớn hơn từ các can thiệp ảnh hưởng đến mực nước cũng như tác động từ hoạt động xây dựng cần được thực hiện và đưa vào kế hoạch quản lý các khu vực tràm.

Bên cạnh các lợi ich – rủi ro và môi trường đề cập ở trên, hướng dẫn quốc gia về xây dựng PRAP cũng đưa ra định hướng về đánh giá rủi ro và lợi ích xã hội và môi trường của các hoạt động REDD+ được đề xuất trong các kế hoạch này.[2] Các đánh giá rủi ro và lợi ích môi trường và xã hội của các giải pháp và chính sách REDD+, đặc biệt cấp tỉnh, đã được tiến hành thông qua Đánh giá xã hội và môi trường chiến lược trong quá trình xây dựng Chương trình Giảm phát thải ở các tỉnh ven biển vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam do FCPF tài trợ[3], và  thông qua đánh giá về Các vấn đề xã hội và môi trường cần lưu ý đối với Dự án Quản lý rừng bền vững khu vực Tây bắc (SUSFORM-NOW) do Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối trong việc xây dựng và thực hiện Chương trình quốc gia về REDD+. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm xây dựng Kế hoạch Hành động REDD+ cấp tỉnh để trình Ủy ban Nhân dân Tỉnh thẩm định và phê duyệt.

Chương trình giảm phát thải khu vực Bắc Trung Bộ đã xác định một số lợi ích phi các-bon tiềm năng và ưu tiên theo 3 loại hình chính: kinh tế xã hội, môi trường và quản trị. Các lợi ích phi các-bon ưu tiên như sau:
Kinh tế xã hội
Duy trì sinh kế bền vững, văn hóa và cộng đồng
Định giá tài nguyên rừng
Tạo thu nhập và việc làm
Môi trường
Thúc đẩy nông nghiệp thông minh với BĐKH
Bảo tồn và bảo vệ đa dạng sinh học
Bảo vệ và duy trì các hệ sinh thái
Quản trị
Tăng cường quản trị xã hội hóa ở cấp thôn bản

Quản trị và quản lý rừng
Tăng cường quyền sử dụng đất
Lập kế hoạch sử dụng đất có sự tham gia

 

[1] Chương trình REDD+ quốc gia 2017, Quyết định số 419 / QĐ-TTg ngày 5/4/2017. Phụ lục: Các chính sách và biện pháp thực hiện REDD + giai đoạn 2017 - 2020
[2] Quyết định số 5414/2015 / QĐ-BNN-TCLN của Bộ NN & PTNT về việc phê duyệt các hướng dẫn cho việc xây dựng Kế hoạch hành động REDD + cấp tỉnh.
[3] Tài liệu chương trình giảm phát thải (ER-PD). Ngày đệ trình: 5 tháng 1 năm 2018