Safeguard B Detail

Nội dung với Safeguard B B1 times .


Tại Việt Nam, tiếp cận thông tin bao gồm việc đọc, xem, nghe, sao chép và sao chụp các thông tin bao gồm chi tiết và dữ liệu được chứa trong các tài liệu và giấy tờ hiện hành và lưu trữ trong bài viết, bản in, văn bản điện tử, tranh ảnh, hình ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, ghi hình, ghi âm thanh hoặc các hình thức khác do các cơ quan Nhà nước ban hành[1]. Thông tin phải được công bố sao cho người dân có khả năng tiếp cận thông tin một cách miễn phí/tự do, trừ trường hợp thông tin được phân loại một cách rõ ràng là không cho phép tiếp cận hoặc có điều kiện[2]. Việc tiếp cận thông tin bao gồm cả công bố thông tin với công chúng và cung cấp thông tin khi được yêu cầu.[3]

Quyền được tiếp cận thông tin được công nhận ở Việt Nam trong Hiến pháp (2013)[4] và trong Luật về Tiếp cận Thông tin (2016)[5] cũng như các tài liệu có liên quan trong đó có Nghị định số 13/2018/ND-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật tiếp cận thông tin (2016) (Khoản 2). Người dân có thể tiếp cận thông tin được công bố công khai hoặc yêu cầu được tiếp cận hầu hết các thông tin một cách dự do bằng cách gửi yêu cầu[6]. . Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin được cung cấp những hướng dẫn về việc cập nhật và công bố thông tin mà các cơ quan này chịu trách nhiệm[7]. Các cơ quan cũng sẽ được hướng dẫn về cách cung cấp thông tin sau khi nhận được yêu cầu[8]. Một số thông tin được phân loại một cách rõ ràng là không được tiếp cận hoặc tiếp cận với điều kiện cụ thể [9]. Việc đảm bảo tính công khai và minh bạch về cung cấp thông tin cũng được nhắc đến trong Luật phòng chống tham nhũng (2005). Nếu nhu cầu tiếp cận thông tin không được đáp ứng, công dân có quyền khiếu nại theo điều khoản của Luật Khiếu nại (2011).[10]

Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm quy định các hướng dẫn kỹ thuật để thực hiện Luật tiếp cận thông tin (2016). Bộ Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện chung. Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước chung đối với việc giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật khiếu nại 2011.

Tòa án Nhân dân tối cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Kiểm toán Nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước và các cơ quan nhà nước khác cũng như các cơ quan tương ứng ở địa phương trách nhiệm quản lý việc giải quyết khiếu nại trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ chức thành viên giám sát việc tuân thủ pháp luật về khiếu nại theo quy định của pháp luật

 

[1] Luật tiếp cận thông tin (2016), Điều 2 (1,3).
[2] Luật Tiếp cận thông tin (2016), Điều 5, 6 & 7.
[3] Luật tiếp cận thông tin (2016), Chương II (tiết lộ thông tin) và Chương III (cung cấp thông tin theo yêu cầu).
[4] Hiến pháp Việt Nam (2013), Điều 25.
[5] Luật tiếp cận thông tin (2016).
[6] Luật Tiếp cận thông tin (2016), Điều 10, 18 và 23.
[7] Luật Tiếp cận thông tin (2016), Điều 9 & 34.
[8] Luật tiếp cận thông tin (2016), các điều 29 và 30.
[9] Luật Tiếp cận thông tin (2016), Điều 6.
[10] Luật Khiếu nại (2011), Điều 14 & 15

 


Chương trình quốc gia về REDD+ phân công nhiệm vụ cho Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ NN&PTNT hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan thông tấn báo chí tuyên truyền để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và nhân dân thực hiện Chương trình REDD+ [1]. Phần nội dung của nguyên tắc đảm bảo an toàn D sẽ bao gồm thông tin về các cơ chế tham vấn và tham gia trong REDD+.

Một số các cơ chế và kênh chia sẻ thông tin đã được thiếp lập cho Chương trình quốc gia về REDD+:

  • Trang website REDD+ Việt Nam, cung cấp thông tin cho mọi đối tượng về REDD+ tại Việt Nam, do Văn phòng BCĐNN quản trị.
  • Cổng thông tin REDD+, cung cấp thông tin cho mọi đối tượng về tiến trình thực hiện REDD+, bao gồm các thông tin về không gian liên quan đến lập kế hoạch REDD+ và thay đổi độ che phủ rừng dựa trên dữ liệu Đo đạc, báo cáo và kiểm chứng (MRV). Cổng thông tin này là một phần của nền tảng FORMIS – Hệ thống thông tin quản lý ngành lâm nghiệp
  • Cơ sở dữ liệu về REDD+ tại Việt Nam, cung cấp thông tin cho người sử dụng được ủy quyền về các dự án và sáng kiến hỗ trợ thực thi REDD+.
  • Mạng lưới REDD+ Việt Nam, một diễn đàn mở gồm các thành viên từ các cơ quan Chính phủ và phi Chính phủ từ cấp trung ương đến cấp địa phương.
  • Bản tin REDD+ được sản xuất định kỳ.

 

 [1] Chương trình quốc gia về REDD+  2017, QĐ số  419/QD-TTg ngày 5/4/2017.


Hướng dẫn quốc gia xây dựng PRAP[1] quy định trách nhiệm về chia sẻ và tuyên truyền thông tin về REDD+. Các sở NN&PTNT cấp tỉnh cùng với các sở ban ngành khác được hướng dẫn để thực hiện các hoạt động giáo dục và truyển thông nhằm nâng cao nhận thức, tăng cường năng lực cho các bên có liên quan về bình đẳng giới, khuyến khích sự tham gia của đồng bào dân tộc thiểu số vào các hoạt động REDD+ và lồng ghép REDD+ vào các chương trình dự án cho người dân tộc thiểu số đang sinh sống trong và gần rừng.

Trong phạm vi của Chương trình giảm phát thải khu vực Bắc Trung Bộ của Quỹ Các-bon, các hoạt động về truyền thông đều hướng tới mục tiêu “phổ biến thông tin một cách kịp thời về Chương trình giảm phát thải tới các bên liên quan và tài liệu hóa những bài học và kết quả đạt được của Chương trình [2]. Chương trình giảm phát thải sử dụng cách tiếp cận quản lý đồng hợp tác thích ứng, được vận hành thông qua các Hội đồng quản lý rừng. Những hội đồng này thực hiện một loạt các nhiệm vụ bao gồm: thiết lập mạng lưới truyền thông, thúc đẩy sự trao đổi thông tin để các bên liên quan đều có thể tiếp cận [3].

 

[1] Chương 2, phần 5, QĐ số. 5414/2015/QD-BNN-TCLN.

Tiếng Việt:

http://vietnam-redd.org/Upload/Download/File/5414_QĐ-BNN-TCLN_PRAP_guidelines_5755.pdf;

Tiếng Anh:

http://vietnam-redd.org/Upload/CMS/Content/Library-GovernmentDocuments/Decision%205414.PRAPguidelines.EN.pdf

[2] Quỹ đối tác các-bon trong lâm nghiệp (FCPF), quỹ Các-bon. Chương trình giảm phát thải (ER-PD). Ngày đệ trình: 05/01/2018

[3] Chương trình giảm phát thải (ER-PD). Phụ lục 8: Cách tiếp cận quản lý đồng hợp tác thích ứng (ACMA) và Cơ chế chia sẻ lợi ích (BSM). Ngày đệ trình: 05/01/2018.

 


Nội dung chưa được cập nhật


Theo luật pháp của Việt Nam, trách nhiệm giải trình được hiểu là “việc cung cấp thông tin của các cơ quan Nhà nước về việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao” [1]. Hay nói rộng hơn, trách nhiệm giải trình gắn liền với sự minh bạch của các hoạt động của các cơ quan công quyền, tổ chức, đơn vị với mục đích đảm bảo một cách tiếp cận dân chủ để quản lý Nhà nước, công nhận vai trò giám sát của toàn xã hội.[2]  Đối với ngành lâm nghiệp, Việt Nam đã thành lập các thể chế cụ thể có khả năng thúc đẩy minh bạch trong các hoạt động của ngành, bao gồm giám sát và theo dõi các nguồn tài chính. Hơn nữa, ngân sách ngành lâm nghiệp phải được trình và xem xét bởi Quốc hội và Chính phủ, và thông tin về ngân sách của các cơ quan lâm nghiệp phải được công bố công khai. Trách nhiệm giải trình cũng liên quan đến việc thông qua và thực hiện các chính sách, luật và quy định để giải quyết tham nhũng và trường hợp sử dụng sai ngân sách.

Luật Phòng chống tham nhũng (2005) và Luật Số 27/2012/QH13 sửa đổi và bổ sung Luật Phòng chống tham nhũng định nghĩa tham nhũng và các hành vi tham nhũng, bắt buộc xây dựng các bộ quy tắc ứng xử cho công chức nhà nước và yêu cầu các công chức ở một cấp độ nhất định phải kê khai tài sản, và ghi rõ rằng tất cả các công chức đều được yêu cầu báo cáo các hành vi tham nhũng nếu chứng kiến[3]. Thêm vào đó, việc thu mua tài sản và dịch vụ công cần minh bạch và trình tự và thủ tục giao chứng nhận quyền sử dụng đất phải được công khai[4]. Việc lấy ý kiến của công chúng đối với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách và các quyết định về quy hoạch sử dụng đất cũng được quy định trong luật[5]. Trong trường hợp các cơ quan nhà nước có quyền hạn xem xét và phê duyệt các dự án và ngân sách nhà nước, các cơ quan này có trách nhiệm giải trình và kiểm toán ngân sách[6]. Nếu các yêu cầu này không được thực hiện, người dân có thể thực hiện khiếu nại với lãnh đạo các cơ quan hoặc thực hiện tố cáo[7] [8]. Các cơ quan Chính phủ cũng được yêu cầu báo cáo thường niên về các hoạt động phòng chống tham nhũng được thực hiện trong phạm vi quyền hạn tương ứng[9].

Ban chỉ đạo chống tham nhũng Trung ương có trách nhiệm quốc gia về hướng dẫn, điều phối, thanh tra và thúc đẩy công tác chống tham nhũng.  Quốc hội và Ủy ban thường vụ (UBTV) Quốc hội giám sát công tác chống tham nhũng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Ban thanh tra nhân dân ở các cấp giám sát công tác chống tham nhũng ở địa phương của mình. Thanh tra Chính phủ, thanh tra Bộ, thanh tra Tỉnh, thanh tra Huyện: chỉ đạo công tác thanh tra việc tuân thủ các quy định pháp luật về chống tham nhũng. Khi phát hiện những dấu hiệu của hành vi tham nhũng, các cơ quan này đề nghị cơ quan có thẩm quyền điều tra và xử lý theo quy định của pháp luật. Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm tổ chức hoạt động kiểm toán để phòng ngừa và phát hiện hành vi tham nhũng trong hoạt động quản lý, điều hành của các cấp chính quyền. VKSNDTC có nhiệm vụ tổ chức và chỉ đạo hoạt động truy tố các tội phạm tham nhũng, kiểm soát các hoạt động điều tra, truy tố và thi hành án các bản án xét xử tội phạm tham nhũng. Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm giải quyết các tố cáo trong phạm vi địa phương mình.

 

1] Nghị định của Chính phủ số 90/2013 / NĐ-CP, Điều 3 (1).
[2] Nguyễn Tuấn Khánh 'Nâng cao cơ sở pháp lý cho trách nhiệm', http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201309/hoan-thien-co-so-phap-ly-ve-trach-nhiem-giai-trinh-292197, ngày 18 tháng 11 năm 2013
[3] Luật chống tham nhũng (2005), các điều 1, 3, 36, 38 và 45.
[4] Luật chống tham nhũng (2005), Điều 13 và 21.
[5] Luật chống tham nhũng (2005), Điều 15 và 21.
[6] Luật chống tham nhũng (2005), Điều 20 và 28.
[7] Luật chống tham nhũng (2005), Điều 72.
[8] Luật chống tham nhũng (2005), Điều 84.
[9] Luật chống tham nhũng (2005), Điều 33.

 


Một số rủi ro liên quan đến trách nhiệm giải trình và tham nhũng đã được xác định thông qua các quy trình lập kế hoạch REDD + ở cấp quốc gia và cấp địa phương. Đánh giá năm 2017 về các lợi ích và rủi ro tiềm ẩn cuả các giải pháp trong Chương trình quốc gia về REDD+[1] đã xác định các rủi ro trong lĩnh vực này tập trung chủ yếu vào “nhóm lợi ích” trong quy trình và/hoặc lợi ích từ REDD +. Ví dụ về một số rủi ro:

  • Thiếu minh bạch và các quy trình tham vấn đánh giá tác động môi trường/đánh giá môi trường chiến lược không được thực thi đầy đủ;
  • Các cơ chế tài chính (như vườn ươm doanh nghiệp) có thể phục vụ tốt hơn lợi ích của khu vực tư nhân với chi phí của các hộ gia đình bỏ ra ở mức độ thấp; và
  • Lợi ích nhóm trong các lợi ích và mô hình kinh doanh đối với rừng tự nhiên.

Ở cấp quốc gia, những giải pháp được đề xuất để giải quyết những rủi ro liên quan đến trách nhiệm giải trình/kiểm soát tham nhũng, đặc biệt là lợi ích nhóm, bao gồm:

  • Cần hướng dẫn rõ ràng đảm bảo các quy trình tham vấn có sự tham gia và minh bạch, bao gồm (i) lựa chọn đại diện, (ii) bao gồm các nhóm bị ảnh hưởng, bao gồm các vấn đề về giới, (iii) không giới hạn việc tiếp cận đối với các bên liên quan, (iv) thông tin được chia sẻ và thảo luận, (v) số lượng và tần suất tham vấn, v.v. Hướng dẫn cũng cần có mẫu báo cáo sẽ được chia sẻ cho công chúng thông qua hệ thống thông tin để đảm bảo các bên có đầy đủ thông tin được ghi nhận và xem xét trong quá trình tham vấn
  • Xây dựng chính sách, nguyên tắc, thủ tục và hướng dẫn vận hành tiêu chuẩn cho các cơ chế tài chính nhằm tăng cường các lợi ích và giảm thiểu rủi ro xã hội. Đảm bảo có các biện pháp đảm bảo an toàn để bảo vệ các cộng đồng và những hộ sản xuất nhỏ trong chuỗi sản xuất hàng hóa
  • Xác định và thực hiện quy trình giao đất rừng một cách phù hợp để giải quyết những rủi ro về mất công bằng, và tăng cường những tác động tích cực về mặt xã hội từ việc giao đất giao rừng.
  • Tăng cường năng lực cho các cơ quan hỗ trợ thực thi, ví dụ các Ban quản lý rừng, các đơn vị khuyến nông v.v. về các quy trình và nguyên tắc đảm bảo an toàn

Ngoài ra, cơ chế giải quyết mâu thuẫn khiêu nại đối với các hoạt động REDD+ tại Việt Nam có thể giải quyết được những rủi ro về trách nhiệm giải trình, tham nhũng và nhóm lợi ích (xem Nguyên tắc ĐBAT B2). Quy trình hiện có đảm bảo sự minh bạch và chia sẻ lợi ích công bằng được nêu trong  Nguyên tắc ĐBAT B2.[GU1]

Ở cấp địa phương, phân tích những rủi ro và lợi ích về môi trường và xã hội cũng là một yêu cầu bắt buộc khi xây dựng Kế hoạch hành động REDD+ cấp tỉnh)[2]. Bên cạnh các lợi ích – rủi ro và môi trường đề cập ở trên, hướng dẫn quốc gia về xây dựng PRAP cũng đưa ra định hướng về đánh giá rủi ro và lợi ích xã hội và môi trường của các hoạt động REDD+ được đề xuất trong các kế hoạch này.  Các đánh giá rủi ro và lợi ích môi trường và xã hội của các giải pháp và chính sách REDD+, đặc biệt cấp tỉnh, đã được tiến hành thông qua Đánh giá xã hội và môi trường chiến lược trong quá trình xây dựng Chương trình Giảm phát thải ở các tỉnh ven biển vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam do FCPF tài trợ, và  thông qua đánh giá về Các vấn đề xã hội và môi trường cần lưu ý đối với Dự án Quản lý rừng bền vững khu vực Tây bắc (SUSFORM-NOW) do Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ. Đánh giá môi trường và xã hội chiến lược (SESA) và Khung quản lý môi trường và xã hội (ESMF) trong Chương trình giảm phát thải cũng đã xác định những rủi ro liên quan đến nhóm lợi ích (vd những lợi ích và khả năng tiếp cận với các nguồn tài nguyên từ rừng) [3]

 

[1] Chương trình quốc gia về REDD+ 2017, Quyết định số 419/QD-TTg ngày 5/4/2017

[2] Chương 3, QĐ 5414/2015/QD-BNN-TCLN.

[3] Chương trình giảm phát thải (ER-PD). Ngày đệ trình: 05/01/2018


Chương trình quốc gia về REDD+[1]  đã đưa ra giải pháp về vốn để thực hiện REDD+ trong giai đoạn 2017-2020. Những nguồn vốn được xác định bao gồm:

a) Nguồn vốn trong nước:

+ Vốn ngân sách nhà nước từ chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh; chương trình mục tiêu giáo dục nghề nghiệp - việc làm và an toàn lao động; chương trình mục tiêu tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư và các chương trình, dự án khác trong giai đoạn 2016-2020.

+ Đầu tư từ các doanh nghiệp và các loại hình kinh tế khác thông qua thị trường; tiền thu từ bồi hoàn giá trị rừng, huy động đóng góp của người dân và từ các chương trình, dự án khác có liên quan.

+ Vốn tín dụng (bao gồm tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng thương mại).

b) Nguồn vốn quốc tế

Đóng góp, tài trợ, ủy thác của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân và các thể chế tài chính khác; nguồn thu nhận được từ kết quả thực hiện REDD+, bao gồm cả nguồn thu từ kinh doanh tín chỉ các - bon rừng.

c) Các nguồn vốn hợp pháp khác

Bộ NN&PTNT được Chính phủ ủy quyền thực hiện đàm phán và ký kết các thoả thuận hỗ trợ tài chính với các nhà tài trợ quốc tế cam kết đóng góp cho Quỹ REDD+ Việt Nam theo quy định của pháp luật. Bộ KHĐT Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính xây dựng cơ chế, chính sách để quản lý và thực hiện Chương trình REDD+ [2].

 

[1] Chương trình quốc gia về REDD+ 2017, Quyết định số 419/QD-TTg ngày 5/4/2017, 5.2. Huy động nguồn tài chính

[2] Chương trình REDD+ quốc gia 2017, QĐ 419/QD-TTg dated 5/4/2017, 6.2. Tổ chức thực hiện